Hữu Lộc
QUỐC HỘI
------ |
CỘNG HOÀ XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc -------- |
Số:
35/2009/QH12
|
Hà Nội, ngày
18 tháng 6 năm 2009
|
LUẬT
CỦA QUỐC HỘI
KHOÁ XII, KỲ HỌP THỨ 5
Quốc hội ban hành Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước.
Luật này quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra
trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án; thủ tục giải quyết bồi
thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi
thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn
thất về tinh thần (sau đây gọi chung là người bị thiệt hại) trong các trường hợp
quy định tại Luật này thì được Nhà nước bồi thường.
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu
như sau:
1. Người thi hành công vụ là người được bầu
cử, phê chuẩn, tuyển dụng hoặc bổ nhiệm vào một vị trí trong cơ quan nhà nước để
thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án hoặc người khác được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng, thi hành án.
2. Hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ gây ra thiệt hại là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn không đúng quy định của pháp luật và được xác định trong văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Văn bản xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ là quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
4. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan
trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt
hại hoặc cơ quan khác theo quy định của Luật này.
1. Người bị thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan
có trách nhiệm bồi thường giải quyết việc bồi thường khi có văn bản của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp
luật hoặc có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại Điều
26 của Luật này.
2. Trong quá trình khiếu nại hoặc khởi kiện vụ
án hành chính, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại hoặc Toà án giải quyết việc bồi thường.
1. Thời hiệu yêu cầu bồi thường quy định tại khoản
1 Điều 4 của Luật này là 02 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành văn bản xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc
kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại
Điều 26 của Luật này.
2. Thời hiệu yêu cầu bồi thường quy định tại khoản
2 Điều 4 của Luật này được xác định theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
3. Trong quá trình giải quyết khiếu nại, giải
quyết vụ án hành chính đã xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ và có thiệt hại thực tế mà việc bồi thường chưa được giải quyết thì thời
hiệu yêu cầu bồi thường được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này.
1. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính,
thi hành án phải có các căn cứ sau đây:
a) Có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi
trách nhiệm bồi thường quy định tại các điều 13, 28, 38 và 39 của Luật này;
b) Có thiệt hại thực tế do hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ gây ra đối với người bị thiệt hại.
2. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước trong hoạt động tố tụng hình sự phải có các căn cứ sau đây:
a) Có bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc
các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của Luật này;
b) Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng
hình sự gây ra đối với người bị thiệt hại.
3. Nhà nước không bồi thường đối với thiệt hại xảy
ra trong các trường hợp sau đây:
a) Do lỗi của người bị thiệt hại;
b) Người bị thiệt hại che dấu chứng cứ, tài liệu
hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật trong quá trình giải quyết vụ việc;
c) Do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết.
Việc giải quyết bồi thường phải tuân theo các
nguyên tắc sau đây:
1. Kịp thời, công khai, đúng pháp luật;
2. Được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa
cơ quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp
của họ;
3. Được trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp
các bên có thoả thuận khác.
Cơ quan có trách nhiệm bồi thường có nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1. Tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu bồi thường của
người bị thiệt hại;
2. Xác minh thiệt hại, thương lượng với người bị
thiệt hại, ra quyết định giải quyết bồi thường;
3. Tham gia tố tụng tại Toà án với tư cách là bị
đơn trong trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi
thường;
4. Thực hiện việc chi trả cho người bị thiệt hại
và quyết toán kinh phí bồi thường;
5. Yêu cầu người thi hành công vụ hoàn trả cho
ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt
hại;
6. Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc
giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
7. Khôi phục hoặc đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại;
8. Báo cáo việc giải quyết bồi thường theo quy định
của pháp luật.
1. Người bị thiệt hại có quyền sau đây:
a) Yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại, khôi
phục danh dự theo quy định của Luật này;
b) Được cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc
Tòa án giải quyết và thông báo việc giải quyết bồi thường;
c) Khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi trái
pháp luật của người có thẩm quyền trong việc giải quyết bồi thường theo quy định
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;
d) Khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của
Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khôi
phục quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Người bị thiệt hại có nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực tài
liệu, chứng cứ có liên quan đến yêu cầu giải quyết bồi thường;
b) Chứng minh về thiệt hại thực tế đã xảy ra.
1. Người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại có
quyền sau đây:
a) Được nhận các quyết định liên quan đến việc
giải quyết bồi thường;
b) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện quyết định, hành
vi trái pháp luật của người có thẩm quyền trong việc giải quyết bồi thường theo
quy định của pháp luật;
c) Quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại có
nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực thông
tin, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết bồi thường theo yêu cầu của cơ
quan có trách nhiệm bồi thường hoặc Tòa án;
b) Hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền
mà Nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền;
c) Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
1. Chính phủ có trách nhiệm sau đây:
a) Thống nhất quản lý nhà nước về công tác bồi
thường trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án;
b) Phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quản lý công tác bồi thường trong hoạt động tố tụng;
c) Ban hành theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ
quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước;
d) Hàng năm, thống kê, tổng kết việc thực hiện bồi
thường; báo cáo Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác bồi thường khi
có yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quy
định tại khoản này.
2. Các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về
công tác bồi thường; hàng năm, báo cáo Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của bộ,
ngành, địa phương mình.
3. Bộ Tài chính có trách nhiệm xây dựng, trình
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền văn bản
quy phạm pháp luật về việc sử dụng và quyết toán ngân sách nhà nước về bồi thường.
4. Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý công tác bồi thường
và phối hợp với Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác bồi
thường; hàng năm, thông báo cho Bộ Tư pháp về công tác bồi thường của ngành
mình.
5. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Điều này.
1. Giả mạo hồ sơ, tài liệu, giấy tờ để được bồi
thường.
2. Thông đồng giữa người bị thiệt hại, người có
trách nhiệm giải quyết bồi thường và người có liên quan để trục lợi trong việc
bồi thường.
3. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn can thiệp trái
pháp luật vào quá trình giải quyết bồi thường.
4. Không giải quyết bồi thường hoặc giải quyết bồi
thường trái pháp luật.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp
sau đây:
1. Ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính;
2. Áp dụng biện pháp ngăn chặn vi phạm hành
chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính;
3. Áp dụng biện pháp buộc tháo dỡ nhà ở, công
trình, vật kiến trúc và biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính khác;
4. Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người
vào trường giáo dưỡng, đưa người vào cơ sở giáo dục hoặc đưa người vào cơ sở chữa
bệnh;
5. Cấp, thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh; Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy
phép;
6. Áp dụng thuế, phí, lệ phí; thu thuế, phí, lệ
phí; truy thu thuế; thu tiền sử dụng đất;
7. Áp dụng thủ tục hải quan;
8. Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định
cư; cấp hoặc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất;
9. Ban hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;
10. Cấp văn bằng bảo hộ cho người không đủ điều
kiện được cấp văn bằng bảo hộ; cấp văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công
nghiệp không đủ điều kiện được cấp văn bằng bảo hộ; ra quyết định chấm dứt hiệu
lực của văn bằng bảo hộ;
11. Không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, Giấy chứng nhận đầu tư, giấy phép và các giấy tờ có giá trị như giấy
phép, văn bằng bảo hộ cho đối tượng có đủ điều kiện;
12. Các trường hợp được bồi thường khác do pháp
luật quy định.
1. Cơ quan hành chính trực tiếp quản lý người
thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại là cơ quan có trách
nhiệm bồi thường.
2. Ngoài trường hợp quy định tại khoản 1 Điều
này thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường được xác định như sau:
a) Trường hợp cơ quan quản lý người thi hành
công vụ đã được chia tách, sáp nhập, hợp nhất hoặc bị giải thể thì cơ quan kế
thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
trường hợp không có cơ quan nào kế thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đã bị
giải thể thì cơ quan đã ra quyết định giải thể là cơ quan có trách nhiệm bồi
thường;
b) Trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu bồi
thường mà người thi hành công vụ gây ra thiệt hại không còn làm việc tại cơ
quan quản lý người đó thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan quản lý
người thi hành công vụ tại thời điểm gây ra thiệt hại;
c) Trường hợp có sự uỷ quyền hoặc uỷ thác thực
hiện công vụ thì cơ quan uỷ quyền hoặc cơ quan uỷ thác là cơ quan có trách nhiệm
bồi thường; trường hợp cơ quan được ủy quyền, cơ quan nhận ủy thác thực hiện
không đúng nội dung ủy quyền, ủy thác gây thiệt hại thì cơ quan này là cơ quan
có trách nhiệm bồi thường;
d) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ
thuộc nhiều cơ quan cùng gây ra thiệt hại thì cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực
chịu trách nhiệm chính trong vụ việc là cơ quan có trách nhiệm bồi thường;
đ) Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ
thuộc cơ quan trung ương và cơ quan địa phương cùng gây ra thiệt hại thì cơ
quan trung ương là cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
1. Cá nhân, tổ chức khi cho rằng mình bị thiệt hại
do người thi hành công vụ gây ra thì có quyền yêu cầu người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại xem xét, kết luận hành vi trái pháp luật của người thi hành
công vụ.
2. Trong thời hạn do pháp luật về khiếu nại, tố
cáo quy định, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét, kết luận bằng
văn bản về hành vi trái pháp luật hoặc không trái pháp luật của người thi hành
công vụ.
3. Thủ tục xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ được áp dụng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố
cáo. Trong quyết định giải quyết khiếu nại phải xác định hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
1. Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ thuộc các trường hợp quy định tại Điều 13
của Luật này thì người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có
trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 14 của Luật này.
2. Đơn yêu cầu bồi thường có các nội dung chính
sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người
thi hành công vụ và tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
1. Khi nhận hồ sơ yêu cầu bồi thường, cơ quan có
trách nhiệm bồi thường phải kiểm tra và xác định tính hợp lệ của đơn và các giấy
tờ kèm theo; trường hợp hồ sơ không đầy đủ thì hướng dẫn người bị thiệt hại bổ
sung.
2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn và các giấy tờ hợp lệ, nếu xác định yêu cầu bồi thường thuộc
trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã nhận hồ sơ phải thụ lý và thông
báo bằng văn bản về việc thụ lý đơn cho người bị thiệt hại; trường hợp yêu cầu
bồi thường không thuộc trách nhiệm giải quyết của mình thì cơ quan đã tiếp nhận
hồ sơ phải trả lại hồ sơ và hướng dẫn người bị thiệt hại gửi đơn đến cơ quan có
thẩm quyền để yêu cầu giải quyết bồi thường.
1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn
yêu cầu bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải hoàn thành việc xác
minh thiệt hại để làm căn cứ xác định mức bồi thường; trường hợp vụ việc có nhiều
tình tiết phức tạp hoặc phải xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn xác minh
thiệt hại có thể kéo dài nhưng không quá 40 ngày.
2. Căn cứ vào tính chất, nội dung của vụ việc,
cơ quan có trách nhiệm bồi thường có thể tổ chức việc định giá tài sản, giám định
thiệt hại về tài sản, giám định thiệt hại về sức khoẻ hoặc lấy ý kiến của các
cơ quan có liên quan về việc giải quyết bồi thường. Chi phí định giá, giám định
được bảo đảm từ ngân sách nhà nước.
3. Trường hợp người bị thiệt hại không đồng ý với
kết quả định giá, giám định mà yêu cầu định giá, giám định lại và được cơ quan
có trách nhiệm bồi thường đồng ý thì chi phí định giá, giám định lại do người bị
thiệt hại chi trả, trừ trường hợp kết quả định giá, giám định chứng minh yêu cầu
định giá, giám định lại là có căn cứ.
1. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày kết thúc
việc xác minh thiệt hại, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải tổ chức và chủ
trì thương lượng với người bị thiệt hại về việc giải quyết bồi thường; trường hợp
vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn thương lượng có thể kéo dài
nhưng không quá 45 ngày.
2. Thành phần thương lượng gồm đại diện cơ quan
có trách nhiệm bồi thường và người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ.
Trong trường hợp cần thiết, người thi hành công vụ gây ra thiệt hại được mời
tham gia vào việc thương lượng.
Đại diện của cơ quan có trách nhiệm bồi thường
phải là người có thẩm quyền để thỏa thuận việc bồi thường với người bị thiệt hại
và chịu trách nhiệm trước cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
3. Địa điểm thương lượng là trụ sở của cơ quan
có trách nhiệm bồi thường hoặc trụ sở của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi người bị thiệt hại cư trú, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
4. Việc thương lượng phải lập thành biên bản.
Biên bản thương lượng phải ghi rõ những nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm tiến hành thương lượng;
b) Địa điểm thương lượng, thành phần tham gia
thương lượng;
c) Ý kiến của các bên tham gia thương lượng;
d) Những nội dung thương lượng thành hoặc không
thành.
Biên bản thương lượng phải có chữ ký của các bên
và được gửi cho người bị thiệt hại một bản ngay sau khi kết thúc thương lượng.
5. Kết quả thương lượng là cơ sở để quyết định
việc bồi thường.
1. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc
việc thương lượng, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải ra quyết định giải
quyết bồi thường. Quyết định giải quyết bồi thường phải có các nội dung chính
sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường;
b) Tóm tắt lý do yêu cầu bồi thường;
c) Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường;
d) Mức bồi thường;
đ) Quyền khởi kiện tại Toà án trong trường hợp
không tán thành với quyết định giải quyết bồi thường;
e) Hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường.
2. Quyết định giải quyết bồi thường phải được gửi
cho người bị thiệt hại, cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm bồi
thường và người thi hành công vụ gây ra thiệt hại.
Quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực sau
15 ngày, kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định, trừ trường hợp người
bị thiệt hại không đồng ý và khởi kiện ra Toà án.
1. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn
ra quyết định giải quyết bồi thường quy định tại Điều 20 của Luật này mà cơ quan
có trách nhiệm bồi thường không ra quyết định hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại
nhận được quyết định nhưng không đồng ý thì người bị thiệt hại có quyền khởi kiện
ra Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 của Luật này để yêu cầu giải
quyết bồi thường.
Trường hợp người bị thiệt hại chứng minh được do
trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể khởi kiện đúng
thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không
được tính vào thời hạn khởi kiện quy định tại khoản này.
2. Người bị thiệt hại không có quyền khởi kiện
yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường trong trường hợp quyết định giải quyết bồi
thường đã có hiệu lực pháp luật.
1. Toà án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu bồi
thường là Toà án nhân dân cấp huyện nơi cá nhân bị thiệt hại cư trú, làm việc,
nơi tổ chức bị thiệt hại đặt trụ sở, nơi thiệt hại xảy ra theo sự lựa chọn của
người bị thiệt hại hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật về tố tụng
dân sự.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường tại Toà
án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
1. Trong quá trình khởi kiện vụ án hành chính mà
người khởi kiện cho rằng, hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây
ra thiệt hại thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành
chính thực hiện việc giải quyết bồi thường. Trong trường hợp này, đơn khởi kiện
còn phải có các nội dung sau đây:
a) Yêu cầu xác định hành vi trái pháp luật của
người thi hành công vụ;
b) Nội dung yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường;
d) Tài liệu, chứng cứ có liên quan đến yêu cầu bồi
thường.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường trong
quá trình giải quyết vụ án hành chính được áp dụng theo quy định của pháp luật
về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
1. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính nếu
có yêu cầu bồi thường thì bản án, quyết định của Tòa án còn phải có các nội
dung sau đây:
a) Tóm tắt lý do yêu cầu bồi thường;
b) Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường;
c) Mức bồi thường;
d) Hình thức bồi thường.
2. Việc xác định trách nhiệm bồi thường và mức bồi
thường được thực hiện theo quy định của Luật này.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các trường hợp sau đây:
1. Người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì người
đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
2. Người bị tạm giam, người đã chấp hành xong hoặc
đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, người đã bị kết án tử
hình, người đã thi hành án tử hình mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi
phạm tội;
3. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành
án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù có thời hạn mà có bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
4. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội
trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định
của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời
gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương
ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức
hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành;
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội
trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản
án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những tội
còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương ứng
với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của những tội
mà người đó phải chấp hành;
6. Người bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã
tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm
một hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời
gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của
những tội mà người đó phải chấp hành;
7. Tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do
việc thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp
quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường.
1. Người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
2. Cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu,
vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội
phạm.
3. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội
trong cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản
án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử
hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một
số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều
26 của Luật này.
4. Người bị khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự
được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được đình chỉ do người
bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật của họ
chưa cấu thành tội phạm.
5. Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với
các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử nhưng tại
thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà theo các văn bản quy
phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét
xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
gây ra trong các trường hợp sau đây:
1. Tự mình áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
2. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác với
biện pháp khẩn cấp tạm thời mà cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu;
3. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vượt quá
yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của cá nhân, cơ quan, tổ chức;
4. Ra bản án, quyết định mà biết rõ là trái pháp
luật hoặc cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án.
1. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt
động tố tụng hình sự là cơ quan được quy định tại các điều 30, 31 và 32 của Luật
này. Trường hợp cơ quan này đã được chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc
có sự uỷ thác thực hiện công vụ thì việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi
thường được thực hiện theo quy định tại điểm a và điểm c khoản 2 Điều 14 của Luật
này.
2. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt
động tố tụng hình sự phải bồi thường thiệt hại đã phát sinh trong các giai đoạn
tố tụng trước đó.
Cơ quan điều tra và cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm bồi thường trong các trường
hợp sau đây:
1. Đã ra quyết định tạm giữ người nhưng Viện kiểm
sát có thẩm quyền đã có quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ đó vì người bị tạm
giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;
2. Đã ra quyết định khởi tố bị can nhưng Viện kiểm
sát có thẩm quyền không phê chuẩn quyết định khởi tố vì người bị khởi tố không
thực hiện hành vi phạm tội.
Viện kiểm sát có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các trường hợp sau đây:
1. Đã phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ của
cơ quan điều tra có thẩm quyền nhưng người bị tạm giữ không có hành vi vi phạm
pháp luật;
2. Đã phê chuẩn lệnh tạm giam của cơ quan điều
tra có thẩm quyền hoặc ra lệnh tạm giam, gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định
của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó
không thực hiện hành vi phạm tội;
3. Toà án cấp sơ thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ
sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan có thẩm quyền đình chỉ điều tra vì
người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
4. Đã có quyết định truy tố bị can nhưng Toà án
cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội và bản
án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;
5. Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên là không có tội vì không thực hiện hành vi phạm
tội;
6. Toà án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết
định của Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không thực hiện hành
vi phạm tội và sau đó Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ
nguyên bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo không có tội vì
không thực hiện hành vi phạm tội.
1. Toà án cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội nhưng
Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ
vụ án vì người đó không phạm tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại mà sau
đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm
tội hoặc huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không
có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội;
b) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản
án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm huỷ bản án và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi
phạm tội;
c) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản
án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm huỷ bản án để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình
chỉ vụ án vì không thực hiện hành vi phạm tội;
d) Toà án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo có tội, bản
án đã có hiệu lực pháp luật nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm huỷ bản án để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì
không thực hiện hành vi phạm tội.
2. Toà án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các trường hợp sau đây:
a) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội
nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm
và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
b) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội
nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm để
điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không
thực hiện hành vi phạm tội;
c) Toà án cấp phúc thẩm tuyên bị cáo có tội
nhưng Toà án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ bản án phúc thẩm để
xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực hiện hành
vi phạm tội.
3. Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, Toà án quân sự quân khu và tương đương xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm giữ nguyên bản án của Toà án cấp dưới tuyên bị cáo có tội trong các
trường hợp sau đây:
a) Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án
quân sự quân khu và tương đương và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện
hành vi phạm tội;
b) Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án
quân sự quân khu và tương đương để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ
điều tra, đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
c) Toà hình sự Toà án nhân dân tối cao xét xử
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm huỷ quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Toà án
quân sự quân khu và tương đương để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là
không có tội vì không thực hiện hành vi phạm tội.
4. Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại khi Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, Toà hình sự Toà án
nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ương (sau đây gọi chung là Toà có thẩm
quyền) xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm giữ nguyên bản án của Toà án
cấp dưới tuyên bị cáo có tội trong các trường hợp sau đây:
a) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân
tối cao và đình chỉ vụ án vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
b) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân
tối cao để điều tra lại mà sau đó bị can được đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án
vì người đó không thực hiện hành vi phạm tội;
c) Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa có thẩm quyền thuộc Toà án nhân dân
tối cao để xét xử lại mà sau đó bị cáo được tuyên là không có tội vì không thực
hiện hành vi phạm tội.
1. Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 28 của Luật này có
trách nhiệm bồi thường.
2. Tòa án cấp sơ thẩm có trách nhiệm bồi thường
trong trường hợp ra bản án, quyết định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật quy định
tại khoản 4 Điều 28 của Luật này mà bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm.
3. Tòa án cấp phúc thẩm có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trường hợp ra bản án, quyết định phúc thẩm đã có hiệu lực pháp
luật quy định tại khoản 4 Điều 28 của Luật này mà bị huỷ theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
4. Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp ra quyết định giám đốc thẩm,
tái thẩm đã có hiệu lực pháp luật quy định tại khoản 4 Điều 28 của Luật này mà
bị huỷ theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
5. Trường hợp Toà án quy định tại các khoản 1,
2, 3 và 4 Điều này đã được chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể thì việc xác
định cơ quan có trách nhiệm bồi thường được thực hiện theo quy định tại điểm a
khoản 2 Điều 14 của Luật này.
1. Khi nhận được bản án, quyết định của cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự xác định thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại
Điều 26 của Luật này thì người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ
quan có trách nhiệm bồi thường theo quy định sau đây:
a) Người bị thiệt hại do quyết định tạm giữ, quyết
định khởi tố bị can của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra quy định tại Điều 30 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi
thường đến cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra đã ra quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố bị can;
b) Người bị thiệt hại do quyết định của Viện kiểm
sát quy định tại Điều 31 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến Viện kiểm
sát đã ra quyết định đó;
c) Người bị thiệt hại do bản án, quyết định của
Toà án có thẩm quyền quy định tại Điều 32 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường
đến Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
2. Đơn yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng
hình sự quy định tại khoản 1 Điều này có các nội dung chính sau đây:
a) Họ và tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường
thiệt hại;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có bản
án, quyết định xác định người đó thuộc một trong các trường hợp được bồi thường
quy định tại Điều 26 của Luật này và tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc
yêu cầu bồi thường.
1. Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ có hành vi quy định tại Điều 28 của Luật
này, người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi
thường theo quy định sau đây:
a) Người bị thiệt hại do Toà án áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 28 của Luật này gửi
đơn yêu cầu bồi thường đến Toà án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời đó;
b) Người bị thiệt hại do Toà án ra bản án, quyết
định quy định tại khoản 4 Điều 28 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi thường đến
Toà án đã ra bản án, quyết định đó.
2. Đơn yêu cầu bồi thường trong hoạt động tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính quy định tại khoản 1 Điều này có các nội dung chính
sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường thiệt
hại;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản
xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
Việc thụ lý, xác minh, thương lượng, ra quyết định
giải quyết bồi thường và hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường trong hoạt
động tố tụng hình sự, dân sự, hành chính được áp dụng theo quy định tại các điều
17, 18, 19, 20 và 21 của Luật này.
Việc khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường,
thẩm quyền và thủ tục giải quyết bồi thường tại Toà án trong hoạt động tố tụng
được thực hiện theo quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Luật này.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành
vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp sau
đây:
1. Ra hoặc cố ý không ra quyết định:
a) Thi hành án;
b) Thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về
thi hành án;
c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án;
d) Cưỡng chế thi hành án;
đ) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Toà án. e) Hoãn thi hành án;
g) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án;
h) Tiếp tục thi hành án.
2. Tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi
hành quyết định quy định tại khoản 1 Điều này.
Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong các trường hợp
sau đây:
1. Ra quyết định thi hành án tử hình đối với người
có đủ điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự;
2. Giam người quá thời hạn phải thi hành án phạt
tù theo bản án, quyết định của Toà án;
3. Không thực hiện quyết định hoãn thi hành án đối
với người bị kết án, quyết định tạm đình chỉ thi hành án phạt tù;
4. Không thực hiện quyết định giảm án tù, quyết
định đặc xá, quyết định đại xá.
1. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt
động thi hành án hình sự là trại giam, trại tạm giam, cơ quan quản lý nhà tạm
giữ, cơ quan công an có thẩm quyền và Toà án ra quyết định thi hành án.
2. Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt
động thi hành án dân sự là cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp quản lý người
thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại.
3. Trường hợp cơ quan quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này đã được chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc người thi
hành công vụ gây ra thiệt hại không còn làm việc tại cơ quan đó tại thời điểm
thụ lý đơn yêu cầu bồi thường hoặc có sự uỷ quyền, uỷ thác thực hiện công vụ
thì việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường được thực hiện theo quy định
tại các điểm a, b và c khoản 2 Điều 14 của Luật này.
1. Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ có hành vi quy định tại Điều 38 của Luật
này, người bị thiệt hại gửi đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan có thẩm quyền quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 40 của Luật này.
2. Đơn yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi
hành án dân sự có các nội dung chính sau đây:
a) Tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường thiệt
hại;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản
xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
1. Khi nhận được văn bản xác định hành vi trái
pháp luật của người thi hành công vụ thuộc trường hợp được bồi thường quy định
tại Điều 39 của Luật này, người bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ gửi đơn yêu
cầu bồi thường đến cơ quan có trách nhiệm bồi thường theo quy định sau đây:
a) Người bị giam quá thời hạn phải thi hành án
theo bản án, quyết định của Toà án quy định tại khoản 2 Điều 39 của Luật này gửi
đơn yêu cầu bồi thường đến trại giam, trại tạm giam, cơ quan quản lý nhà tạm giữ
đã thực hiện việc giam quá thời hạn đó;
b) Người bị thiệt hại do không được thực hiện
quyết định hoãn thi hành hình phạt tù, tạm đình chỉ thi hành hình phạt tù, giảm
án tù, đặc xá, đại xá quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 39 của Luật này gửi
đơn yêu cầu bồi thường đến cơ quan công an có thẩm quyền;
c) Thân nhân của người bị thiệt hại do quyết định
thi hành án tử hình quy định tại khoản 1 Điều 39 của Luật này gửi đơn yêu cầu bồi
thường đến Toà án có thẩm quyền ra quyết định đó.
2. Đơn yêu cầu bồi thường trong hoạt động thi
hành án hình sự quy định tại khoản 1 Điều này có các nội dung chính sau đây:
a) Họ và tên, địa chỉ của người yêu cầu bồi thường
thiệt hại;
b) Lý do yêu cầu bồi thường;
c) Thiệt hại và mức yêu cầu bồi thường.
3. Kèm theo đơn yêu cầu bồi thường phải có văn bản
xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ và tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến việc yêu cầu bồi thường.
Việc thụ lý, xác minh, thương lượng, ra quyết định
giải quyết bồi thường và hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường trong hoạt
động thi hành án được áp dụng theo quy định tại các điều 17, 18, 19, 20 và 21 của
Luật này.
Việc khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết bồi thường,
thẩm quyền và thủ tục giải quyết bồi thường tại Toà án trong hoạt động thi hành
án được thực hiện theo quy định tại Điều 22 và Điều 23 của Luật này.
1. Trường hợp tài sản đã bị phát mại, bị mất thì
thiệt hại được xác định căn cứ vào giá thị trường của tài sản cùng loại hoặc
tài sản có cùng tính năng, tiêu chuẩn kỹ thuật và mức độ hao mòn của tài sản đã
bị phát mại, bị mất trên thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường.
2. Trường hợp tài sản bị hư hỏng thì thiệt hại
được xác định là chi phí có liên quan theo giá thị trường tại thời điểm giải
quyết bồi thường để sửa chữa, khôi phục lại tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng
không thể sửa chữa, khôi phục thì thiệt hại được xác định theo quy định tại khoản
1 Điều này.
3. Trường hợp có thiệt hại phát sinh do việc
không sử dụng, khai thác tài sản thì thiệt hại được xác định là thu nhập thực tế
bị mất. Đối với những tài sản trên thị trường có cho thuê, thu nhập thực tế bị
mất được xác định phù hợp với mức giá thuê của tài sản cùng loại hoặc tài sản
có cùng tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng, tác dụng và chất lượng tại thời điểm giải
quyết bồi thường; đối với những tài sản trên thị trường không có cho thuê, thu
nhập thực tế bị mất được xác định trên cơ sở thu nhập do tài sản bị thiệt hại
mang lại trong điều kiện bình thường trước thời điểm thiệt hại xảy ra; nếu tài
sản bị kê biên được giao cho người bị thiệt hại hoặc người khác quản lý thì chi
phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại về tài sản được xác định
là những thiệt hại được bồi thường.
4. Các khoản tiền đã nộp vào ngân sách nhà nước
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bị tịch thu, thi hành án,
khoản tiền đã đặt để bảo đảm tại cơ quan có thẩm quyền được hoàn trả cho người
bị thiệt hại hoặc thân nhân của họ; trường hợp khoản tiền đó là khoản vay có
lãi thì phải hoàn trả cả khoản lãi hợp pháp; trường hợp khoản tiền đó không phải
là khoản vay có lãi thì phải hoàn trả cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của
họ cả khoản lãi theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại
thời điểm giải quyết bồi thường.
1. Cá nhân, tổ chức có thu nhập mà xác định được
thì được bồi thường theo thu nhập thực tế bị mất.
2. Trường hợp cá nhân có thu nhập thường xuyên
nhưng không ổn định thì mức bồi thường được xác định căn cứ vào thu nhập trung
bình trong ba tháng liền kề trước thời điểm thiệt hại xảy ra.
3. Cá nhân có thu nhập không ổn định và không có
cơ sở xác định cụ thể hoặc thu nhập có tính chất thời vụ thì áp dụng mức thu nhập
trung bình của lao động cùng loại tại địa phương. Trường hợp không xác định được
thu nhập trung bình thì tiền bồi thường được xác định theo mức lương tối thiểu
chung đối với cơ quan nhà nước tại thời điểm giải quyết bồi thường (sau đây gọi
chung là lương tối thiểu).
1. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong thời
gian bị tạm giữ hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh được xác định là hai ngày lương tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ
hành chính, bị đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
2. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường
hợp bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù được xác định là ba ngày lương
tối thiểu cho một ngày bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù.
3. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường
hợp người bị thiệt hại chết được xác định là ba trăm sáu mươi tháng lương tối
thiểu.
4. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường
hợp sức khoẻ bị xâm phạm được xác định căn cứ vào mức độ sức khoẻ bị tổn hại
nhưng không quá ba mươi tháng lương tối thiểu.
5. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường
hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà không bị tạm giữ, tạm giam được
xác định là một ngày lương tối thiểu cho một ngày bị khởi tố, truy tố, xét xử,
thi hành án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù cho hưởng án treo. Thời gian để
tính bồi thường thiệt hại được xác định kể từ ngày có quyết định khởi tố bị can
cho đến ngày có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người đó
thuộc trường hợp được bồi thường quy định tại khoản 3 Điều 26 của Luật này.
1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng,
chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết.
2. Chi phí cho việc mai táng theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội.
3. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tiền cấp dưỡng hàng tháng được xác
định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc đã
được xác định theo quyết định có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng,
phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của
người bị thiệt hại theo quy định tại Điều 46 của Luật này.
3. Chi phí hợp lý và thu nhập thực tế bị mất của
người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.
4. Trong trường hợp người bị thiệt hại mất khả
năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại được bồi thường
bao gồm chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản cấp dưỡng
cho những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Khoản
cấp dưỡng hàng tháng được xác định là mức lương tối thiểu, trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác hoặc đã được xác định theo quyết định có hiệu lực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu
phải được trả lại ngay khi quyết định thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu bị hủy
bỏ.
1. Người bị thiệt hại quy định tại các khoản 1,
2 và 3 Điều 26 của Luật này hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu
khôi phục danh dự trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định giải quyết bồi
thường có hiệu lực pháp luật.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu bằng văn bản về việc khôi phục danh dự của người bị thiệt hại hoặc người
đại diện hợp pháp của họ, cơ quan có trách nhiệm bồi thường đã thụ lý vụ việc
phải thực hiện việc xin lỗi, cải chính công khai.
3. Việc xin lỗi, cải chính công khai được thực
hiện bằng các hình thức sau đây:
a) Trực tiếp xin lỗi, cải chính công khai tại
nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người bị thiệt hại có sự tham dự của đại diện
chính quyền địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú, đại diện của cơ quan nơi
người bị thiệt hại làm việc, đại diện của một tổ chức chính trị - xã hội mà người
bị thiệt hại là thành viên;
b) Đăng trên một tờ báo trung ương và một tờ báo
địa phương trong ba số liên tiếp theo yêu cầu của người bị thiệt hại hoặc đại
diện hợp pháp của họ.
4. Trường hợp người bị thiệt hại chết, thân nhân
của họ có quyền yêu cầu khôi phục danh dự.
1. Trường hợp cơ quan trung ương có trách nhiệm
bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách trung ương.
2. Trường hợp cơ quan địa phương có trách nhiệm
bồi thường thì kinh phí bồi thường được bảo đảm từ ngân sách địa phương.
Hàng năm, căn cứ thực tế bồi thường của năm trước,
cơ quan tài chính các cấp phối hợp với cơ quan, đơn vị cùng cấp lập dự toán
kinh phí bồi thường để tổng hợp vào dự toán ngân sách cấp mình, trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà
nước và được phân bổ cho cơ quan, đơn vị khi có yêu cầu chi trả tiền bồi thường.
1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày bản
án, quyết định giải quyết bồi thường có hiệu lực pháp luật, cơ quan có trách
nhiệm bồi thường phải chuyển ngay hồ sơ đề nghị bồi thường đến cơ quan tài
chính cùng cấp; trường hợp là cơ quan hưởng kinh phí từ ngân sách trung ương
thì chuyển hồ sơ đến cơ quan quản lý cấp trên.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được hồ sơ, cơ quan nhận được hồ sơ có trách nhiệm kiểm tra tính hợp lệ của hồ
sơ đề nghị bồi thường để cấp kinh phí hoặc có văn bản gửi cơ quan tài chính
cùng cấp đề nghị cấp kinh phí bồi thường; trường hợp hồ sơ chưa hợp lệ thì hướng
dẫn cơ quan có trách nhiệm bồi thường bổ sung hồ sơ hoặc sửa đổi, bổ sung quyết
định giải quyết bồi thường. Thời hạn bổ sung hồ sơ không quá 15 ngày.
2. Hồ sơ đề nghị bồi thường gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp kinh phí bồi thường có
ghi đầy đủ, cụ thể về người được bồi thường, các khoản tiền bồi thường đối với
các thiệt hại cụ thể và tổng số tiền đề nghị được cấp để thực hiện việc bồi thường;
b) Bản sao văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ;
c) Bản án, quyết định giải quyết bồi thường của
cơ quan có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật.
3. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ đề nghị bồi thường hợp lệ thì cơ quan tài chính có thẩm quyền cấp kinh
phí cho cơ quan có trách nhiệm bồi thường để chi trả cho người bị thiệt hại.
4. Sau khi nhận được kinh phí do cơ quan tài
chính cấp, trong thời hạn 05 ngày làm việc, cơ quan có trách nhiệm bồi thường
phải thực hiện việc chi trả bồi thường cho người bị thiệt hại hoặc thân nhân của
người bị thiệt hại.
5. Trường hợp bản án, quyết định giải quyết bồi
thường của Toà án có hiệu lực pháp luật mà cơ quan có trách nhiệm bồi thường
không tự nguyện thi hành thì người được bồi thường có quyền yêu cầu cơ quan thi
hành án dân sự thi hành theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự.
Kết thúc năm ngân sách, các cơ quan, đơn vị có
trách nhiệm bồi thường lập quyết toán kinh phí đã chi trả bồi thường, tổng hợp
chung trong quyết toán ngân sách hàng năm của cơ quan, đơn vị gửi cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
1. Người thi hành công vụ có lỗi gây ra thiệt hại
có nghĩa vụ hoàn trả cho ngân sách nhà nước một khoản tiền mà Nhà nước đã bồi
thường cho người bị thiệt hại theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
2. Người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt
hại quy định tại Điều 26 của Luật này không phải chịu trách nhiệm hoàn trả.
3. Người thi hành công vụ ngoài việc phải hoàn
trả khoản tiền quy định tại khoản 1 Điều này thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi
phạm còn phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định
của pháp luật.
1. Căn cứ xác định mức hoàn trả bao gồm: a) Mức
độ lỗi của người thi hành công vụ; b) Mức độ thiệt hại đã gây ra;
c) Điều kiện kinh tế của người thi hành công vụ.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quy định việc xác định mức hoàn trả của người thi hành
công vụ.
2. Trường hợp nhiều người thi hành công vụ gây
ra thiệt hại thì những người đó có nghĩa vụ liên đới hoàn trả; cơ quan có trách
nhiệm bồi thường chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý những người thi hành
công vụ gây ra thiệt hại thống nhất xác định mức hoàn trả cho từng cá nhân có
nghĩa vụ hoàn trả.
1. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày đã thực hiện
xong việc chi trả tiền bồi thường, cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải thành
lập Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả để xác định trách nhiệm hoàn trả, mức
hoàn trả đối với người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
Trường hợp có nhiều người thi hành công vụ thuộc
nhiều cơ quan khác nhau gây ra thiệt hại thì Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn
trả phải có sự tham gia của đại diện các cơ quan liên quan để xác định trách
nhiệm hoàn trả, mức hoàn trả đối với từng người thi hành công vụ đã gây ra thiệt
hại.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quy định việc thành lập, thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của
Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ.
2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đã thực hiện
xong việc chi trả tiền bồi thường, người có thẩm quyền quy định tại Điều 59 của
Luật này phải ban hành quyết định hoàn trả. Quyết định hoàn trả phải được gửi đến
người có nghĩa vụ hoàn trả, cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan có trách nhiệm
bồi thường.
1. Thủ trưởng cơ quan có trách nhiệm bồi thường
có thẩm quyền ra quyết định hoàn trả.
2. Trong trường hợp thủ trưởng cơ quan có trách
nhiệm bồi thường là người có nghĩa vụ hoàn trả thì thủ trưởng cơ quan cấp trên
trực tiếp của người đó có thẩm quyền ra quyết định hoàn trả.
Trường hợp người thi hành công vụ có trách nhiệm
hoàn trả không đồng ý với quyết định hoàn trả thì có quyền khiếu nại hoặc khởi
kiện quyết định hoàn trả theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
1. Quyết định hoàn trả có hiệu lực sau 15 ngày,
kể từ ngày ký nếu người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại không có khiếu nại
hoặc khởi kiện đối với quyết định này.
2. Căn cứ vào quyết định hoàn trả đã có hiệu lực
pháp luật, cơ quan có trách nhiệm bồi thường thực hiện việc thu số tiền phải
hoàn trả và nộp vào ngân sách nhà nước.
1. Việc hoàn trả có thể được thực hiện một lần
hoặc nhiều lần.
2. Trường hợp việc hoàn trả được thực hiện bằng
cách trừ dần vào lương hàng tháng của người thi hành công vụ thì mức tối thiểu
không dưới 10% và tối đa không quá 30% thu nhập từ tiền lương hàng tháng.
Cơ quan có trách nhiệm bồi thường phải nộp đầy đủ,
kịp thời toàn bộ khoản tiền hoàn trả vào ngân sách nhà nước. Việc quản lý, sử dụng
tiền hoàn trả thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
1. Khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại thuộc trách nhiệm của Nhà nước theo quy định của Luật này, người bị thiệt hại
không phải nộp lệ phí, án phí và các loại phí khác.
2. Không thu thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập
doanh nghiệp đối với khoản tiền bồi thường mà người bị thiệt hại được nhận.
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 01 năm 2010.
2. Các văn bản quy phạm pháp luật sau đây hết hiệu
lực thi hành kể từ ngày Luật này có hiệu lực:
a) Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người
bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và các văn
bản hướng dẫn thi hành;
b) Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của
Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà
nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
1. Các trường hợp yêu cầu bồi thường đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thụ lý nhưng chưa giải quyết hoặc đang giải quyết
theo Nghị quyết số 388/2003/NQ - UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra hoặc Nghị định số 47/CP ngày 03
tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công
chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây
ra trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì tiếp tục áp dụng các văn bản
quy phạm pháp luật đó để giải quyết.
2. Các trường hợp được bồi thường theo Nghị quyết
số 388/2003/NQ - UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự gây ra và Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính
phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước,
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra đến thời điểm Luật này
có hiệu lực mà còn thời hiệu theo quy định của các văn bản này nhưng chưa yêu cầu
Nhà nước bồi thường hoặc đã yêu cầu nhưng chưa được thụ lý thì áp dụng các quy
định của Luật này để giải quyết.
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được
giao trong Luật; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng
yêu cầu quản lý nhà nước.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2009.
CHỦ TỊCH QUỐC
HỘI
Nguyễn Phú Trọng |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét