Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

Quận 2: Mua “lúa non” tái định cư, được tòa “thưởng”

(CATP) Ông Mai Hữu Thung (SN 1959, ngụ Thích Quảng Đức, Q. Phú Nhuận) mua phiếu đăng ký tái định cư của bà Ngô Thị Như An (SN 1976, ngụ P.An Phú, Q2) với giá 230 triệu đồng. Khẳng định việc mua bán là vô hiệu và hai bên đều có lỗi như nhau, nhưng TANDQ2 lại buộc bà An trả lại ông Thung 1,715 tỷ đồng, bao gồm 230 triệu đồng vốn và 1,485 tỷ đồng “bồi thường thiệt hại” (?!).

Bản án viết Ủy ban nhân dân Q2 thành Ủy “banh” nhân dân Q2
BỎ MỘT VỐN, TÒA TUYÊN BẢY LỜI

Vợ chồng bà Ngô Thị Như An là chủ sử dụng 1.354,86m2 đất (một phần diện tích là rạch) đất ở ấp 4, P. An Lợi Đông, Q2 bị giải tỏa trắng để xây dựng Khu đô thị mới Thủ Thiêm. UBNDQ2 ban hành hai quyết định bồi thường, hỗ trợ thiệt hại. Trong đó có một quyết định bà An đứng tên được bồi thường với diện tích 461,81m2 (hồ sơ số 1050/ALĐ) và phần còn lại do chồng bà An là ông L.V.P đứng tên (hồ sơ số 477/ALĐ). Bà An được một phiếu “đăng ký tái định cư” (ĐKTĐC) số 1050/PTĐC-HĐBT ngày 18-3-2005 cho phần đất 461,81m2.

Do hoàn cảnh gia đình, ngày 15-9-2005 bà An đã bán phiếu ĐKTĐC cho ông Mai Hữu Thung với giá 230 triệu đồng. Hợp đồng ghi rõ: giá này không đổi khi giá thị trường lên hay xuống. Nếu bà An chuyển nhượng cho ai thì phải bồi thường gấp đôi số tiền cho ông Thung. Bà An kể: “Sau khi bán phiếu ĐKTĐC, vợ chồng tôi thấy sai trái nên nhiều lần liên hệ với ông Thung để thỏa thuận hủy hợp đồng, nhưng ông ấy không gặp. UBND P. An Lợi Đông mời hai bên hòa giải vào ngày 13-3 và 20-3-2008. Cả hai lần tôi đều đến phường, còn ông Thung vắng mặt không lý do. UBND phường yêu cầu tôi làm đơn nhờ tòa giải quyết”.

Bà An làm đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán phiếu ĐKTĐC được TAND Q2 thụ lý ngày 20-2-2009. Thẩm phán Phạm Văn Lũy được giao giải quyết vụ án. Bà An bức xúc vì vụ việc khá đơn giản, nhưng bị “ngâm” suốt hơn hai năm rưỡi. Đến ngày 18-11-2011 (sau hơn 33 tháng), thẩm phán Lũy mới ký quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25-11-2011, hai bên cùng thống nhất hủy hợp đồng mua bán phiếu ĐKTĐC. Bà An chấp nhận trả lại 230 triệu đồng, nhưng ông Thung không đồng ý và yêu cầu tòa “xử theo quy định”. HĐXX do thẩm phán Phạm Văn Lũy làm chủ tọa cùng hai hội thẩm Võ Thị Gái và Phạm Thị Ngọc Dưỡng “xét thấy”: giao dịch mua bán phiếu ĐKTĐC là vô hiệu. Lỗi dẫn đến hợp đồng vô hiệu là do cả hai bên nên mỗi bên phải chịu 1/2 (một nửa) tương ứng với lỗi của mình.

“Xét thấy” như thế, nhưng thẩm phán Lũy lại tuyên buộc vợ chồng bà An phải trả cho ông Thung 1,715 tỷ đồng, gồm 230 triệu mà vợ chồng bà An đã nhận và 1,485 tỷ là tiền “bồi thường thiệt hại”. Chưa hết, vợ chồng bà An phải nộp 28,7 triệu đồng án phí, còn ông Trung không phải nộp một xu!

Để cho ra số tiền “thiệt hại”, thẩm phán Lũy làm hai phép toán “trừ” và “chia”. Đầu tiên, thẩm phán Lũy lấy con số 3,2 tỷ đồng “trừ” 230 triệu đồng ra 2,97 tỷ đồng. Tiếp theo, thẩm phán Lũy lấy 2,97 tỷ đồng “chia” 2 ra 1,485 tỷ! Ở đâu có con số 3,2 tỷ đồng? Thẩm phán căn cứ vào quyết định 688/QĐ-UBND ngày 13-1-2010 của UBNDQ2 kèm theo bảng chiết tính “hỗ trợ bổ sung” với số tiền mà vợ chồng bà An được nhận là 3,2 tỷ đồng.

TÌM CÔNG LÝ Ở TÒA PHÚC THẨM

Không chỉ kháng cáo, vợ chồng bà An làm đơn gửi các cơ quan bảo vệ pháp luật chỉ ra hàng loạt bất thường trong bản án số 71/2011/DSST do thẩm phán TANDQ2 Phạm Văn Lũy ngồi ghế chủ tọa xét xử sơ thẩm.

Thứ nhất, xác định hợp đồng mua bán phiếu ĐKTĐC sai nghiêm trọng về cả nội dung lẫn hình thức nên vô hiệu và lỗi của hai bên ngang nhau, nhưng thẩm phán Lũy lại buộc nguyên đơn phải “bồi thường thiệt hại” cho bị đơn là không có căn cứ.

Thứ hai, thẩm phán Lũy lấy khoản tiền của nhà nước “hỗ trợ bổ sung” từ chính sách tái định cư làm cơ sở tính toán thiệt hại là trái quy định pháp luật. Lấy con số 3,2 tỷ đồng làm mốc tính cũng sai. Tại thời điểm năm 2005, UBNDQ2 ra quyết định bồi thường cho bà An theo hồ sơ 1050/ALĐ là 460,36 triệu đồng; bồi thường cho ông P. (chồng bà An) theo hồ sơ 477/ALĐ là 523,66 triệu đồng. Bà An bán phiếu ĐKTĐC cho ông Thung chỉ liên quan đến hồ sơ 1050, không dính dáng gì đến hồ sơ 477 của ông P. Đến khi có chính sách “bồi thường bổ sung” theo quyết định số 688/QĐ-UBND của UBNDQ2 thì hai hồ sơ 1050 và 477 được điều chỉnh nhập thành một. Số tiền 3,2 tỷ đồng mà vợ chồng bà An nhận “hỗ trợ” là cho cả hai hồ sơ với toàn bộ diện tích đất bị thu hồi.

Thứ ba, trong hợp đồng mua bán phiếu ĐKTĐC hai bên đã thỏa thuận rất rõ, nếu bà An vi phạm thì phải bồi thường cho ông Thung gấp đôi số tiền đã nhận (230 triệu đồng). Một điểm đáng lưu ý, không chỉ bà An, ông Thung đã mua nhiều phiếu ĐKTĐC tại Q2, có dấu hiệu “thu gom” kiếm lợi, làm ảnh hưởng lớn đến chính sách tái định cư của TP đặc biệt tại dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm. Lẽ ra phải làm rõ vấn đề nghiêm trọng này và kiến nghị UBNDTP và các cơ quan chức năng xử lý theo quy định pháp luật thì thẩm phán Lũy lại buộc vợ chồng bà An phải bồi thường đến 1,485 tỷ đồng, giống như “thưởng” cho ông Thung!

Thứ tư, vụ án khá đơn giản với những chứng cứ rất rõ ràng, nhưng bị “ngâm” suốt gần 3 năm mới đưa ra xét xử là vi phạm nghiêm trọng tố tụng. Chưa hết, nhân danh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, nhưng bản án số 71/2011/DSST do thẩm phán Lũy ký tên đóng dấu có quá nhiều lỗi sai cơ bản rất đáng trách. Cụ thể như Ủy ban nhân dân Q2 trong bản án viết thành Ủy “banh” nhân dân Q2!

 Vợ chồng bà An đã làm đơn kháng cáo, theo lịch phiên tòa phúc thẩm sẽ được đưa ra xét xử ngày 15-6-2012. Vợ chồng bà An cùng dư luận đang chờ Hội đồng xét xử TANDTP xem xét, có phán quyết công bằng, khách quan, đúng theo quy định pháp luật...
    VĂN CƯƠNG                                     
Nguồn : congan.com.vn


* Chúng tôi đưa thông tin lên Blogs để bà con tham khảo. Do trình độ, năng lực của người thực thi pháp luật khác nhau nên trong vận dụng xét xử cũng không giống nhau. 
Hữu Lộc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét